Với quy mô phát triển công nghiệp năng lượng được quy hoạch từ nay đến năm 2030, vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) trở thành nơi có mật độ ...
Với quy mô phát triển công nghiệp năng lượng được quy hoạch từ nay đến năm 2030, vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) trở thành nơi có mật độ nhiệt điện cao trong nước. Nguy cơ ô nhiễm từ đây cũng rất cao.
Nhiệt điện than rải khắp nơi
Dọc theo tuyến sông Hậu từ thành phố Cần Thơ xuống Hậu Giang ra đến cửa biển giữa hai tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh, đã và đang hình thành khoảng 15 nhà máy nhiệt điện. Các cụm nhà máy nhiệt điện này đã được phê duyệt theo Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020, có xét đến năm 2030 hiệu chỉnh (gọi tắt là Quy hoạch điện VII hiệu chỉnh). Tính cả các nhà máy đã xây dựng - vận hành và chuẩn bị triển khai trong các năm tới nếu có nhà đầu tư, thì bốn tỉnh trên sẽ có thể cung cấp một lượng điện dự kiến là 14.388,5 MW.
Ngoài các nhà máy dọc theo dòng sông Hậu, ở ĐBSCL còn có các nhà máy nhiệt điện dự kiến được xây dựng tại Long An (Long An 1 và 2, công suất 1.200 MW/nhà máy), Bạc Liêu (1.200 MW) và Cà Mau (Cà Mau 1 và 2, nằm trong tổ hợp khí - điện - đạm với công suất ước tính mỗi nhà máy là 750 MW khi đốt khí; 669,8 MW khi đốt dầu DO).
Với quy mô phát triển công nghiệp năng lượng như vậy, từ nay đến năm 2030, vùng ĐBSCL trở thành một trong những khu vực có mật độ nhiệt điện cao so với cả nước. Đặc biệt, đoạn từ Cần Thơ đến Trà Vinh, chỉ khoảng 80 ki lô mét đường sông, sẽ trở thành đoạn sông tấp nập những tàu vận tải chuyển tiếp than đá cung cấp cho các nhà máy nhiệt điện đang được triển khai ở đây.
Một nhà máy thuộc cụm nhà máy nhiệt điện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. Ảnh Lê Anh Tuấn
Hầu hết nhà máy nhiệt điện ở ĐBSCL đều dùng nhiên liệu chính là than đá, ngoài một số ít dùng dầu DO hoặc khí đốt. Hiện nay, một phần than đá được cung cấp bởi các mỏ than ở tỉnh Quảng Ninh. Trong tương lai gần, các nhà máy sử dụng than nhập khẩu từ Úc hoặc Indonesia. Trong các nguồn nhiên liệu hóa thạch dùng để phát điện, than đá được xem là loại chất đốt tạo ô nhiễm không khí cao nhất, kể cả các chất thải rắn và lỏng phát sinh trong quá trình sản xuất điện năng.
Ngày 18/3/2016, Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt Quy hoạch điện VII hiệu chỉnh. Điểm mới của Quy hoạch điện VII hiệu chỉnh so với phương án cơ sở của Quy hoạch điện VII là giảm tỷ lệ năng lượng từ nhiệt điện than và tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo trong tổng cơ cấu phát triển nguồn điện. Cụ thể, theo sơ đồ Quy hoạch điện VII hiệu chỉnh, vào năm 2030, nhiệt điện than sẽ chiếm 56% trong công suất dự báo và 62% trong tổng điện lượng dự báo. Sự điều chỉnh này thể hiện phần nào việc Việt Nam thực hiện cam kết về việc giảm phát thải khí nhà kính trong Hội nghị lần thứ 21 Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu tại Paris năm 2015 - Hội nghị COP21 (sẽ cắt giảm lượng khí thải 8 % vào năm 2030 và đến 25% nếu có sự hỗ trợ quốc tế).
Dù tỷ lệ đóng góp năng lượng của nhiệt điện than đến năm 2030 có giảm so với quy hoạch trước đây, nhưng vẫn chiếm hơn một nửa công suất và tổng sản lượng điện toàn quốc. Đến năm 2030, theo Quy hoạch điện VII hiệu chỉnh, Việt Nam sẽ phải nhập hơn 85 triệu tấn than từ các nước, gấp hai lần khả năng cung cấp than trong nước. Điều này có nghĩa là Việt Nam sẽ phụ thuộc nguồn nhiên liệu ở nước ngoài, khiến an ninh năng lượng quốc gia chịu nhiều áp lực. Còn theo số liệu kiểm kê phát thải khí nhà kính, Bộ Tài nguyên và Môi trường ước tính rằng chỉ riêng việc đốt nhiên liệu hoá thạch (than đá, dầu DO, FO, gaz LPG) ở Việt Nam, đã chiếm tới 31,1% tổng phát thải khí nhà kính năm 2020 và lên đến 51% tổng phát thải khí nhà kính năm 2030.
Sẽ là thảm họa?
Tất cả nhà máy nhiệt điện đốt than đều có những lò hơi phát sinh rất lớn các khói tro xỉ, tro bụi, các khí độc hại như SO2, NOx, CO và các hydrocacbon bay hơi. Hàm lượng tro xỉ thường chiếm từ 5-40% khối lượng đốt than. Tro bụi trong khói đốt than, đặc biệt trong các nhà máy nhiệt điện than và các phương tiện giao thông chạy bằng nhiên liệu hóa thạch, có chứa rất nhiều chất hạt bụi (Particulate matter, viết tắt là PM) lơ lửng trong không khí. Các chỉ số PM10, PM2.5 (lần lượt được định nghĩa là lượng các hạt bụi lơ lửng có đường kính nhỏ hơn hoặc bằng 10 µm (micromet, bằng một phần ngàn milimet) và 2.5 µm trong một mét khối không khí) được sử dụng như là các tiêu chí đánh giá mức độ ô nhiễm không khí do khói bụi. Các hạt bụi rắn từ tro bụi và xỉ than lơ lửng này gần như không phân hủy. Nếu các hạt PM10 tích tụ vào phổi người do hít phải, sẽ gây hệ lụy xấu cho sức khỏe. Còn nếu hạt PM2.5 khi xâm nhập qua đường hô hấp, sẽ đi sâu vào các túi phổi người, sẽ đặc biệt nguy hiểm hơn vì gần như không thể tống ra khỏi cơ thể người.
Theo Tổ chức Y tế thế giới, môi trường không khí an toàn khi chỉ số PM2.5 lấy ở độ cao 1,5-3 mét phải nhỏ hơn 10, nghĩa là cứ mỗi một mét khối không khí, số PM2.5 không được vượt quá 10 hạt. Chỉ số PM10 và PM2.5 càng cao sẽ làm gia tăng nguy cơ cho các bệnh mãn tính liên quan đến bệnh hô hấp như viêm phổi, viêm phế quản và các bệnh lý tim mạch khác trong cộng đồng, trầm trọng hơn sẽ là các chứng ung thư phổi, đột quỵ, trụy tim mạch, sẩy thai... phổ biến hơn là giảm tuổi thọ và chất lượng cuộc sống của cư dân.
Ngoài ra, khí thải dạng SOx, NOx từ quá trình vận hành nhà máy nhiệt điện khi phát tán vào không khí sẽ bị oxy hóa trong không khí. Trong trường hợp có độ ẩm cao, sương mù và mưa rơi, sẽ tạo nên trận mưa axit xuống đồng ruộng, ao hồ gây ảnh hưởng xấu đến cây trồng, các loài thủy sản, các hệ sinh thái, cũng như làm ăn mòn vật liệu kim loại và các công trình xây dựng kiến trúc, tượng đài... Vào mùa mưa, gió mùa Tây Nam sẽ đưa các đám khói bụi từ khu vực nhà máy nhiệt điện ở Cần Thơ, Hậu Giang đến các vùng ven biển Trà Vinh, Bến Tre, Tiền Giang... Ngược lại, khi có gió chướng, gió mùa Đông Bắc thì các khối không khí mang khói bụi từ các nhà máy nhiệt điện ở Trà Vinh, Sóc Trăng đưa sâu vào đất liền.
Việc nung đốt nhiên liệu than đá sẽ phát thải một khối lượng khổng lồ khí CO2, làm gia tăng nhiệt độ không khí do hiệu ứng nhà kính toàn cầu, là nguyên nhân gây hiện tượng biến đổi khí hậu và nước biển dâng cũng như các yếu tố thiên tai cực đoan khác. Một ki lô gam than đá khi bị đốt cháy hoàn toàn có thể phát sinh một thể tích khói bụi khoảng 7,5-8,5 mét khối chứa đầy các chất gây ô nhiễm không khí. Hội nghị COP21 ở Paris, các nhà khoa học đã thống nhất lên án việc sử dụng than đá làm năng lượng là thủ phạm chính trong nhiều thập niên qua làm trái đất nóng lên.
Hiện nay, công nghệ nhiệt điện than ở Việt Nam vẫn còn lạc hậu. Theo đánh giá của Giáo sư Lauri Myllivirta (Đại học Harvard, 2015), các nhà máy nhiệt điện than hiện nay ở Việt Nam đã phát thải lượng khí thải gấp 1,75 lần Trung Quốc, 3,5 lần Ấn Độ về khí SO2; tương tự, cao gấp 4,5 lần cả Trung Quốc và Ấn Độ về lượng khí NOx. Nếu không có cải tiến và giảm thiểu số dự án nhiệt điện than, từ nay đến khoảng 15 năm nữa, mỗi năm có thể sẽ có hơn 25.000 người chết do ô nhiễm khói bụi từ nhiệt điện than.
Theo đánh giá của ông Jim Yong Kim, Chủ tịch WB vào tháng 5-2016, kế hoạch phát triển điện than ở bốn quốc gia ở châu Á là Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia và Việt Nam đã chiếm hết ba phần tư số nhà máy điện than trên thế giới. Nếu kế hoạch điện than của bốn nước này được thực hiện thì sẽ phá hỏng Thỏa ước khí hậu Paris. Ông Jim Yong Kim cảnh báo: “Nếu Việt Nam tiếp tục kế hoạch 40 GW điện than, nếu toàn bộ khu vực thực hiện các kế hoạch dựa vào than đá ngay bây giờ, tôi nghĩ rằng chúng ta đang đi đến hồi kết”. Ông kết luận: “Đó sẽ là một thảm họa đối với chúng ta và hành tinh của chúng ta”.
Phương án “không hối tiếc”
Dù các nhà máy nhiệt điện than ở dọc sông Hậu được xây dựng với các công nghệ tương đối mới, giảm thiểu phát thải hơn so với các nhà máy trước đó nhưng trước nguy cơ ô nhiễm không khí và nguồn nước, nhất là trong bối cảnh biến đổi khí hậu, chúng ta không thể yên tâm, nhất là khi nhiều nhà máy vẫn còn sử dụng công nghệ và thiết bị do Trung Quốc cung ứng.
Dù quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, cũng cần hiểu rằng, quy hoạch, cũng như kế hoạch, hoàn toàn vẫn có thể điều chỉnh và sửa đổi được. Chúng ta chưa lưu ý lắm đến việc lựa chọn phương án “không hối tiếc” về môi trường, như khai thác tiềm năng điện mặt trời, điện gió, điện thủy triều, điện sinh khối, thủy điện nhỏ vốn rất dồi dào ở Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng, Nhiều chuyên gia đã khẳng định lựa chọn này có thể đáp ứng đáng kể nhu cầu điện năng quốc gia, dù hiện nay suất đầu tư hơi cao nhưng đang rẻ dần trong tương lai gần.
Hệ sinh thái sông - biển vùng Tây Nam bộ rất nhạy cảm với những sự biến động tự nhiên và nhân tạo, sự cảnh báo của các nhà chuyên môn không bao giờ thừa, nhất là trong hoàn cảnh một bộ phận không nhỏ các nhà lãnh đạo vẫn muốn công nghiệp hóa cho một vùng sản xuất nông ngư nghiệp lớn nhất, chịu trách nhiệm an ninh lương thực bền vững cho cả nước.
Lê Anh Tuấn - Đại học Cần Thơ
Thời báo Kinh tế Sài gòn