Dự án giao thông thủy xuyên Á trên sông Hồng từ đề xuất của công ty Xuân Thiện Cục đường thủy nôi địa Việt Nam cho biết, Thủ tướng Chính phủ ...
Dự án giao thông thủy xuyên Á trên sông Hồng từ đề xuất của công ty Xuân Thiện
Cục đường thủy nôi địa Việt Nam cho biết, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến về chủ trương đầu tư xây dựng tuyến giao thông thủy xuyên Á trên sông Hồng kết hợp thủy điện theo hình thức đầu tư- kinh doanh- sở hữu (BOO).Theo đó, Thủ tướng giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn Công ty TNHH Xuân Thiện( tỉnh Ninh Bình) thực hiện hồ sơ, trình tự, thủ tục quyết định chủ trương đầu tư xây dựng. Bộ chịu trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Bộ Giao thông vận tải và các Bộ, ngành, địa phương có liên quan tổ chức thẩm định hồ sơ, lập báo cáo thẩm định và báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định chủ trương đầu tư dự án theo quy định của pháp luật (Chinhphu.vn. 2016)
Theo đề xuất của Cty Xuân Thiện , thuộc Tập đoàn Xuân Thành; dự án sẽ bao gồm việc xây dựng tuyến đường thủy Lào Cai-Hải Phòng với 7 bến cảng,dùng cho tàu có công suất 400-600 tấn, 6 đập dâng nước và âu tầu kết hợp các công trình thuỷ điện. Dự án được tiến hành dưới hình thức xây dựng -sở hữu- vận hành (BOO) với tổng chi phí ước tính tới 24.500 tỷ đồng (tương đương 1,1 tỷ USD).Trong tổng vốn đầu tư dự kiến; chi phí xây dựng chiếm 33,5%, thiết bị 18,6%, bồi thường tái định cư trên 5% và dự phòng khoảng 26,7%. Với cơ cấu đầu tư dự kiến, nguồn vốn tự có chiếm 30%, 70% còn lại vay thương mạivới lãi suất từ 4% đến 9%/năm.(VRN 2016; NguyễnTrang 2016)
Từ tính toán của nhà đầu tư (công ty Xuân Thiện); khi hoàn thành, dự án sẽ mang lại lợi ích đáng kể, tạo động lực phát triển kinh tế xã hội các tỉnh miền núi phía Bắc; giảm áp lực đường bộ, đường sắt trên tuyến Hà Nội-Lào Cai.nhờ vận tải đường thủy thông suốt quanh năm từ Lào Cai đến Hải Phòng; đồng thời kết hợp sản xuất điện năng với tổng công suất 228 MW tương đương 912 triệu kWh/năm. Với những cảng sông dọc theo tuyến bao gồm: cảng Phố Mới, cảng Apatit, cảng Quý Xa (Lào Cai), cảng Văn Phú (Yên Bái), cảng Ngọc Tháp, cảng Cổ Tiết (Phú Thọ), cảng Bắc Hà Nội;dự án sẽ,góp phần đẩy mạnh công nghiệp khai khoáng, hóa chất, luyện kim và vật liệu xây dựng là những thế mạnh của các địa phương trong vùng.
Ngoài những giá trị trên đây; dự án còn xây dựng từ 3 đến 6 công trình đầu mối âu đập kết hợp giao thông với thủy điện và nạo vét luồng lạch đoạn từ Việt Trì đến Lào Cai dài 288km. Dòng sông được nạo vét sẽ đạt tiêu chuẩn cấp III; kết hợp với xây dựng 6 nhà máy thủy điện nhỏ (cấp II), kiểu tua bin trục ngang cột nước thấp. Nhà đầu tư khẳng định, dự án sẽ đảm bảo nước dâng tại các vị trí đập luôn thấp hơn mực nước lũ hàng năm, do đó ít ảnh hưởng ngập lụt, cũng không ảnh hưởng đến môi trường và hầu như không làm thay đổi so với hiện trạng (Chinhphu.vn 2016).
Với nguồn thu từ phí luồng tuyến (đoạn Việt Trì-Yên Bái từ 10.000 đồng đến 15.000 đồng/tấn; từ Yên Bái trở lên 40.000 đồng – 45.000 đồng/tấn); bán điện vớigiá khởi đầu 1.900 đồng/Kwh và có lộ trình tăng lên 3.560 đồng/Kwh, dự án có thể hoàn vốn trong vòng 25 năm (KH.V Lao động 2016).
Theo đề xuất của Cty TNHH Xuân Thiện , đầu tháng 5/2016 Bộ KHĐT đã có văn bản đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, thông qua chủ trương đầu tư dự án với mục tiêu kép là nâng cấp tuyến vận tải đường thủy dọc sông Hồng trên cơ sở kết nối 2 tuyến vận tải thủy lớn là Hải Phòng -Việt Trì; Hà Nội- Lạch Giang (Trung Quốc) và cung cấp lượng điện năng lên tới 0,91 tỉ Kwh/năm. Nếu đề xuất được chấp thuận, dự án sẽ triển khai trong sáu năm (2016-2021). Theo đó, trong giai đoạn đầu sẽ tiến hành việc nạo vét dòng sông, nâng cấp biển báo hiệu đường thủy, xây dựng hệ thống cảng; thành lập các trạm thu phí hoặc kết hợp với các đơn vị quản lý cảng vụ để khai thác dự án theo hợp đồng.
Xu thế toàn cầu trong khai thác tiềm năng của những dòng sông
Các dòng sông lớn trên thế giới mang nhiều tiềm năng về thủy điện, giao thông và tài nguyên thiên nhiên; nếu được khai thác hợp lý sẽ mang lại lợi ích to lớn. Chính vì điều này, không ít quốc gia đã quyết định xây dựng những “đại dự án” nhằm kết hợp khai thác hợp lý những tiềm năng của các con sông. Tuy nhiên, bên cạnh những tham vọng, nhiều nước đã phải trả giá đắt cho những hệ lụy khó lường.
Quản lý tốt đi cùng những lợi ích to lớn
Tỉnh Giang Tây (Trung Quốc)với chiều dài của 885 km đường sông chảy về phía Trường Giang, được xem là một chìa khóa trong chiến lược phát triển. Nhờ sự hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật của Ngân hàng Thế giới (WB) “siêu dự án” phức hợp thủy điện và thủy lộ Shihutang thực hiện vào năm 2009, đã cải thiện đáng kểkhả năng chống lũ, tạo ra nguồn năng lượng sạch và nâng cao khả năng lưu thông hàng hóa của vùng trung và hạ lưu sông Cám. Báo cáo của Ngân hàng Thế giới cho biết, hơn 38 km thủy lộ lưu vực sông được nâng từ cấp độ V lên cấp III đã giúp tăng khả năng lưu thông của các con tàu 1.000 tấn từ 27% lên 95% tổng thời gian hoạt động. Đến năm 2013, các nhà máy thủy điện của dự án đã tạo được 284 GWh điện năng, góp phần khắc phục tình trạng thiếu điện, đưa mức tăng trưởng lên 5%/ năm đồng thời giảm được hơn 220.000 tấn khí thải carbon. Với các hệ thống chống lũ lụt như đê, kênh chuyển dòng, trạm bơm, cống thoát nước; dự án còn giúp bảo vệ được hơn hơn 4.400 ha đất nông nghiệp; rút ngắn quãng đường di chuyển giữa hai bờ sông đến 12 km (Trung Nhân 2016)
Từ lâu nước Mỹ đã phát triển các hệ thống phức hợp thủy điện và thủy lộ trên những dòng sông lớn. Số liệu lưu trữ nhiều năm cho thấy, hệ thống thủy điện và thủy lộ trên dòng sông Colombia ở phía Bắc đã cung cấp đến 80% điện năng cho vùng, và dòng sông được nạo vét sâu hơn 12 m trên chiều dài hơn 170 km hình thành hệ thống liên hoàn các đập và âu tàu, tạo thuân lợi để vận chuyển hơn 17 triệu tấn hàng hóa /năm. Hệ thống âu tàu và đập thủy điện ở đây còn giúp điều hòa dòng lũ và nhất là kiểm soát, điều hòa được sự di chuyển của các loài cá(Trung Nhân 2016)
Cái giá phải trả của nhiều quốc gia và khu vực
Mặc dù việc khai thác tổng hợp các dòng sông mang lại lợi ích to lớn; song nhìn tổng thể, nếu thiếu cân nhắc tác động môi trường, nông nghiệp và hệ sinh thái, “thảm họa”lâu dài sẽ không tránh khỏi và nhiều quốc gia đã phải chịu những hậu quả nặng nề.
Tại Brazil, tháng 8-2003, tập đoàn điện lực quốc gia Brazil (Furnas) và công ty cổ phần xây dựng Odebrecht (Hà Lan) đã trình dự án phức hợp thủy điện- thủy lộ trên dòng Madeira (phụ lưu chính của sông Amazon) lên chính phủ với khẳng định sẽ tạo ra 7 triệu ha đất trồng đậu nành và cây lương thực, tăng sản lượng nông nghiệp đến 25 triệu tấn/năm. Theo dự án, tuyến thủy lộ Guapore- Madeira có thể giảm chi phí vận chuyển hàng năm cho hơn 7 triệu tấn phân bón, hạt giống và thuốc trừ sâu.
Với tham vọng phát triển kết nối giao thông giữa Đại Tây Dương và vùng đồng bằng Amazon dọc biên giới Brazil và Bolivia, dự án được kỳ vọng là thành tố quan trọng của sáng kiến kết nối cơ sở hạ tầng khu vực Nam Mỹ (IIRSA). Tuy nhiên, do thiếu cân nhắc tác động môi trường và hệ sinh thái; chính quyền Brazil đã chấp nhận với sự ủng hộ chưa từng có để thực hiện dự án này. Theo đó, lịch sử của dòng Amazon đã sang trang, đánh dấu bởi lòng tham và những tính toán sai lầm của nhà cầm quyền.
Kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Quốc gia về Amazon (Brazil) cho thấy, dự án Antonio và Jirau chặn dòng Madeira đã tác động khổng lồ đến môi trường, gây lũ lụt tại nước Bolivia. Mặt khác, việc thay đổi dòng chảy dẫn đến hủy diệt hệ sinh thái tự nhiên, ngăn cản luồng cá di chuyển; ảnh hưởng nghiêm trọng đến đa dạng sinh học, đánh bắt thủy sản và làm thay đổi đáng kể hệ sinh thái. Không dừng lại ở đó, dự án còn đe dọa đến sự tồn tại của rừng Amazon; theo Tổ chức các dòng sông Quốc tế, kế hoạch mở rộng nông nghiệp đi cùng dự án phức hợp thủy lợi-thủy lộ trên sông Madeira buộc các chính phủ tiếp tục tàn phá rừng Amazon để mở mang nông nghiệp.(Trung Nhân 2016)
Tai khu vực châu Á, châu thổ Mê Kông là nơi có hệ di sản thiên nhiên độc đáo mang tầm quốc tế. Cuối thế kỷ XX, Mê Kông vẫn còn là một trong những dòng chảy chưa bị ngăn đập trên phần lớn dòng chảy. Giữa thập niên 1990, Trung Quốc bắt đầu lên kế hoạch xây 7 đập thủy điện ở thượng nguồn; về phía hạ lưu, Lào, Cămpuchia và Thái Lan cũng bắt đầu lập kế hoạch xây dựng 12 con đập trên dòng sông chính.Theo dự tính, năm 2015 có 36 đập đưa vào vận hành và năm 2030, con số này sẽ lên khoảng 70.
Trước hiểm họa môi trường và sinh thái đối với lưu vực ngư nghiệp nội địa lớn nhất thế giới này; tháng 10 năm 2010, Ủy hội Mêkong (MRC) và Trung tâm Quản lý Môi trường Quốc tế-(ICEM) đã xây dựng Báo cáo đánh giá tác động môi trường chiến lược thủy điện (SEA) dòng chính Mekong. SEA đã nhìn nhận một cách toàn diện những vấn đề liên quan, bao gồm cả sản xuất điện và an ninh năng lượng; phát triển kinh tế và giảm nghèo; đảm bảo tính đa dạng và toàn diện của các hệ sinh thái; động thái thủy văn và vận chuyển phù sa; thủy sản và anh ninh lương thực; các hệ thống xã hội, sinh kế và ảnh hưởng văn hóa, lối sống của cộng đồng dân cư.(Lê Thành Ý 2016).
Với nhận định, các công trình thủy điện trên dòng chính gây tác động đến chế độ vận hành phủ đỉnh và tích nước trong mùa khô có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chế độ dòng chảy, SEA nêu rõ, tổng lượng phù sa, bùn cát và chất dinh dưỡng bị giảm tới 65% tại Kratie và Tân Châu - Châu Đốc; dẫn đến giảm mạnh năng suất sinh học và sản lượng nông nghiệp, gia tăng xói lở , giảm lượng phù sa bồi lắng ở các vùng ven sông và ven biển. Ngoài ra, xâm ngập mặn sẽ gia tăng ở hầu hết các vùng ven biển (ICEM 2010)
Điều quan trọng là, các đập thủy điện tác động rất lớn đến các loài cá trắng di cư ; ước tính tới 74% sản lượng của 10 loài cá có giá trị kinh tế lớn bị cản trở di cư hoàn toàn. Các đập thủy điện ngăn dòng chảygây sụt giảm sản lượng đánh bắt thủy sản tới 50% ở cả Việt Nam và Campuchia; tổn thất này gây tác động bất lợi đến an ninh lương thực, sinh kế, phúc lợi xã hội và kinh tế của phần lớn người dân sống trong các vùng đồng bằng ngập lũ cả ở Campuchia và ĐBSCL của Việt Nam (ICEM 2010).
Tác động bất lợi của đập thủy điện trên dòng Mêkông đến sản xuất nông nghiệp ở mức đáng kể; đối với sinh kế của người dân trong vùng còn chịu tác động lớn bởi xâm nhập mặn gia tăng. Nhiều tổ chức đã nhấn mạnh khi đưa ra khuyến cáo, phát triển thủy điện trên dòng chính ở hạ lưu vực Mekong có thể gây tổn thất lâu dài và không thể phục hồi được đối với vùng đồng bằng ngập lũ, tác động xấu đến đời sống của hàng triệu người dân, từ đó tạo ra gánh nặng lên kinh tế địa phương và khu vực.(Lê Thành Ý 2016)
Làm rõ tác động của việc phát triển thủy điện đến kinh tế, môi trường và xã hội hạ lưu sông Mekong; Báo cáo tháng 11 năm 2015 củaTrung tâm Nghiên cứu, Đào tạo quản lý môi trường và tài nguyên Chiang Rai Thái Lan đã rút ra, các dự án thủy điện xây dựng trên dòng sông chính không mang lại lợi ích kinh tế. Với lợi nhuận thủy điện được chia 30% cho nước chủ nhà và 70% cho nước đầu tư và nhập khẩu điện trong 25 năm; Thái Lan và Lào là nước được hưởng lợi, còn Campuchia và Việt Nam phải trả giá đắt cho việc làm này. Nhà phát triển và nhâp khẩu điện được hưởng lợi, còn cộng đồng ngư dân, dân nông thôn nghèo phải gánh chịu hậu quả nặng nề (Apisom Intralawan et al 2015).
Nghiên cứu tổng quan lượng cá di cư khi hoàn thành xây dựng 11 con đập, A. Intralawan và cộng sự ước tính, tổng sản lượng thủy sản đánh bắt bị mất đi chừng 58 vạn tấn/năm. Trong đó, nước tổn thất lớn nhất là Campuchia (34 vạn tấn/năm) tiếp sau là Việt Nam (14 vạn tấn/năm).Thực hiện kịch bản 11 đập, vùng thấp ở Lào và Campuchia được xây dựng sẽ gia tăng đáng kể diện tích ngập nước dẫn đến nhiều tổn thất. Kết quả tính toán kinh tế theo giá trị thực cho thấy: Đối với phương án xây dựng 6 đập, đánh bắt thủy sản hàng năm bị mất 58% lượng cá; thủy sản hồ chưa hàng năm thu được 2,7tỷ USD, trong khi tổn thất thủy sản lên tới 27 tỷ USD (cao gấp 10 lần), tổn hao đất ngập nước 1,5 tỷ USD, lượng phù sa dinh dưỡng khoảng 2,7 tỷ USD…. Tổng hợp lợi ích và tổn thất của phương án xây dưng 6 đập cho phép rút ra tổng lợi ích mang lại có mức âm 2,4 tỷ USD. Đối với phương án 11 đập, lợi ích tổng thể ở mức âm 21,8 tỷ USD. Trong đó, Lào hưởng lợi 3,4tỷ USD; Campuchia chịu tổn thất 26,4 tỷ USD và Việt Nam âm 9,8 tỷ USD (Apisom Intralawan et al 2015).
Cùng với không có lợi ích kinh tế, nhiều nghiên cứu cũng rút ra những bất cập về môi trường và xã hội thể hiện ở hệ sinh thái, dòng chảy phù sa, chất dinh dưỡng và tác động xã hội bất lợi. Với lượng phù sa ước tính từ 160 đến 165 triệu tấn, hằng năm, dòng chảy Mekong đã cung cấp trên 26.000 tấn phosphate cho vùng đất đồng bằng. Những con đập chặn dòng chảy làm giảm từ 56 đên 84% tổng lượng phù sa tích tụ, dẫn đến thay đổi sinh thái cốt lõi của các đồng bằng; nơi phụ thuộc rất nhiều vào nguồn cung cấp phù sa để duy trì địa hình và giữ cân bằng độ sụt lún. Theo Anthony, xói lở ảnh hưởng lớn đến vùng bãi bùn ven biển Đông, làm tổn thương trầm trọng vùng đồng bằng là mối đe dọa đến sự an toàn và đời sống của nông dân và ngư dân (Apisom Intralawan et al 2015).
Phân tích rủi ro có thể mang lại, giới nghiên cứu nhận định, nếu không có giải pháp giảm thiểu tác động môi trường có thể dẫn đến tình trạng thiếu hụt đáng kể nguồn thực phẩm đặc biệt đối với đồng bằng Cửu Long, nơi cung cấp đến 50% lương thực cho Việt Nam, chiếm gần 90% sản lượng lúa gạo và 60% lượng hải sản xuất khẩu của Việt Nam (Apisom Intralawan et al 2015).
Xu thế trả lại dòng sông trở về trạng thái nguyên thủy
Trong xu thế toàn cầu, ngược với nhiều nước đang phát triển nỗ lực tìm cách khai thác các dòng sông, nâng cấp lưu thông đường thủy và tận dụng lợi thế thủy điện; các quốc gia phương Tây lại đang tìm giải pháp khôi phục trạng thái ban đầu của các dòng sông, trả nhiều dòng chảy trở về với nguyên thủy,
Theo cộng đồng Bảo tồn Thiên nhiên Thụy Điển; tại châu Âu hiện chỉ còn 04 hệ thống sông lớn được chảy tự nhiên từ nguồn về đến cửa sông (3 hệ thống ở Nga và01 còn lại là dòng Torne-Kalix chảy qua Thụy Điển và Phần Lan).Ngay từ những năm 1990, khi đang là nước đứng thứ sáu thế giới về thủy điện, Thụy Điển đã bắt đầu khởi động chương trình tái tạo lại các dòng sông.Trong quản lý tài nguyên nước;từ năm 2000, Liên minh châu Âu EU đã đưa ra khung chỉ định về nguồn nước, yêu cầu tất cả dòng sông chảy qua các quốc gia thành viên cần phải đưa trở về “tình trạng tốt” trước năm 2015.
Mạng Environment 360 cho biết, nhiều quốc gia châu Âu đang đẩy mạnh quá trình cải tạo các dòng sông. Nước Anh cam kết khôi phục lại trên 1.500 km sông. Duero một trong những dòng sông lớn nhất Tây Ban Nha đang được “dọn dẹp” các đập và công trình chặn dòng. Những con đập trên dòng Loire, sông dài nhất nước Pháp, đang dần được phá bỏ. Cửa sông Skjern của Đan Mạch được bồi đắp rở lại sau khi bờ sông nhân tạo được hạ thấp để dòng lũ chảy tự nhiên. Nguồn tin từ trang mạng National Geography cũng cho biết, từ năm 2014 đến nay nước Mỹ đã phá bỏ hơn 72 đập trên các dòng sông lớn, nhỏ (Trung Nhân 2016).
Tác giả: Lê Thành Ý
(Còn tiếp)