Việt Nam vẫn dựa vào nhiệt điện than để cố gắng duy trì giá điện thấp và thúc đẩy sản xuất. Nhưng thực tế, ngoài chi phí thiệt hại môi trường bị bỏ qua mà xã hội phải tự gánh chịu, chính sách nhiệt điện than giá rẻ còn dẫn đến hậu quả càng ngày càng phụ thuộc sâu hơn vào nhiệt điện than. Không chỉ thế, chính sách này còn gián tiếp tạo áp lực liên tục lên nguồn cung điện và du nhập công nghệ lạc hậu từ nước ngoài.
Nhiệt điện than không hề rẻ!
Theo phân tích trong bài Mỗi năm nhiệt điện than “ăn” vào môi trường gần 4,5 tỉ đô la đăng trên TBKTSG số ra ngày 3-12-2020, các nhà máy nhiệt điện than đang được hưởng trợ thuế bảo vệ môi trường (BVMT) gần 102.000 tỉ đồng, tương đương 4,4 tỉ đô la Mỹ trong năm 2019. Không chỉ thế, nhiệt điện than cũng gây ra thiệt hại do ô nhiễm không khí đến 104.000 tỉ đồng, tương đương 4,5 tỉ đô la mỗi năm.
Theo Cục Điều tiết điện lực (baodautu.vn), lượng điện than phát lên lưới năm 2019 là 132 tỉ kWh. Tính trung bình, tiền trợ thuế BVMT mà nhiệt điện than đang được hưởng là 770 đồng/kWh. Tương tự, thiệt hại mà nhiệt điện than gây ô nhiễm không khí là 780 đồng/kWh.
Giá nhiệt điện than năm 2019 mà Bộ Công Thương ban hành là 1.677- 1.896 đồng/kWh, trung bình 1.787 đồng/kWh (www.evn.com.vn). Chưa cần tính những chi phí môi trường trên, giá nhiệt điện than đã cao hơn mức giá cao nhất của điện khí mà tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) đang bán cho tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) là tại Nhà máy Điện Nhơn Trạch 2, ở mức 1.603 đồng/kWh(www.stockbiz.vn). Giá nhiệt điện than cũng cao hơn giá điện mặt trời mặt đất và mặt nước.
Nếu tính sòng phẳng thuế BVMT hoặc thiệt hại môi trường vào chi phí phát điện, giá nhiệt điện than lên đến 2.560 đồng/kWh. Nghĩa là nếu tính đúng, giá nhiệt điện than phải gấp 1,4 lần so với mức “giá rẻ cưỡng bức” hiện nay, và gấp 1,3 lần đơn giá điện bình quân năm 2019. Không chỉ có vậy, nếu tính đúng thì nhiệt điện than đang có giá đắt nhất trong tất cả các nguồn điện hiện nay (hình 1).
Theo xu thế giảm giá của điện mặt trời và điện gió trên toàn cầu, Việt Nam cũng đang có lộ trình giảm giá mua từ hai nguồn điện này thông qua cơ chế đấu thầu. Trong ngắn hạn, Bộ Công Thương đã đề xuất giá mua bán điện gió đối với dự án vận hành từ tháng 11-2021 đến tháng 12-2022 là 7,02 UScent/kWh (1.627 đồng/kWh) cho dự án trên bờ và 8,47 UScent/kWh (1.963 đồng/kWh) cho dự án trên biển. Trong năm 2023, giá điện gió tương ứng giảm xuống còn 6,81 UScent (1.578 đồng/kWh) và 8,21 UScent/kWh (1.903 đồng/kWh)(baogiaothong.vn). Nghĩa là dự kiến chưa đầy một năm nữa, giá mua điện gió trên bờ sẽ rẻ hơn giá mua nhiệt điện than ngay cả khi chưa tính chi phí môi trường!
Có ý kiến cho rằng, Việt Nam sẽ đầu tư vào nhiệt điện than công nghệ hiện đại nên không có gì phải lo ngại về ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, suất đầu tư cao ngất ngưởng của nhiệt điện than công nghệ hiện đại cho thấy luận điểm đó là phi thực tế. Cụ thể, số liệu của Viện Năng lượng cho thấy suất đầu tư của nhiệt điện than công nghệ siêu tới hạn là 1,814 triệu đô la/MW và của công nghệ trên siêu tới hạn lên đến 1,998 triệu đô la/MW, tức là gấp đôi so với suất đầu tư điện khí. Ngay cả công nghệ nhiệt điện than lạc hậu nhất là cận tới hạn, mà thế giới đang từ bỏ, đã lên đến 1,515 triệu đô la/MW, gấp 1,6 lần suất đầu tư điện khí (hình 2)!
Viện Năng lượng dự báo giá khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) nhập khẩu để chạy nhiệt điện khí khoảng 8-12 đô la/triệu BTU. Với mức giá LNG đầu vào là 8,62 đô la/triệu BTU, dự án LNG Quảng Ninh (baodautu.vn) đang đề xuất giá điện 8,75 UScent/kWh. Mức giá này cao hơn chỉ 8% so với giá nhiệt điện than (nhập khẩu than) với công nghệ siêu tới hạn mà chưa tính chi phí môi trường năm 2019. Nếu sử dụng công nghệ trên siêu tới hạn với suất đầu tư cao hơn 10% so với công nghệ siêu tới hạn, có thể khẳng định rằng nhiệt điện than không có cửa cạnh tranh với điện khí từ nguồn LNG nhập khẩu.
Giá điện thấp đang dành cho ai?
Dĩ nhiên, vì vẫn muốn duy trì giá điện thấp, các nhà quản lý dường như không muốn bỏ trợ thuế BVMT hay tính chi phí môi trường cho than đá để có giá điện thực. Nhưng thực tế, giá điện thấp đang dành cho ai?
Theo cơ cấu biểu giá điện hiện hành (Quyết định số 28/2014/QĐ-TTg), giá điện sản xuất chỉ bằng 87,8-97,1% so với giá điện bình quân (tính theo 24 giờ tiêu thụ, hình 3). Trong khi đó, khối kinh doanh phải trả từ 135,8-149,4% so với giá điện bình quân. Tương tự, giá điện sinh hoạt từ 101 kWh trở lên phải trả 110% so với giá điện bình quân, và càng dùng nhiều giá càng cao. Ở mức từ 401 kWh trở lên, người dùng điện sinh hoạt phải trả 159% so với giá điện bình quân.
Như vậy, những người kinh doanh, cũng như những hộ gia đình sử dụng điện sinh hoạt từ 101 kWh trở lên đang trả tiền điện cao hơn giá bình quân để bù chéo giá điện thấp hơn giá bình quân mà khối sản xuất đang được hưởng. Trong dự thảo biểu giá điện mới (www.evn.com.vn), giá điện sản xuất chỉ bằng 84,8% đến 98,3% so với giá điện bình quân, nghĩa là khối sản xuất vẫn tiếp tục được các nhóm khách hàng khác bù chéo giá điện.
Theo số liệu của EVN (documents1.worldbank.org), khối công nghiệp và xây dựng, mà công nghiệp chiếm đa số, đã tiêu thụ tới 55% lượng điện, trong khi cả hai nhóm kinh doanh và sinh hoạt chỉ tiêu thụ 38% lượng điện. Rõ ràng rằng, những người tiêu thụ ít điện hơn phải trả giá cao hơn để bù chéo tiền điện cho những người tiêu thụ nhiều điện hơn, là khối sản xuất.
Một nghiên cứu gần đây của Ngân hàng Thế giới (WB) đã chỉ ra giá điện sản xuất của Việt Nam thuộc nhóm thấp nhất trong các nước châu Á. Chính sách duy trì giá điện sản xuất thấp đã dẫn đến việc du nhập những công nghệ lạc hậu trong suốt thời gian qua, mà hưởng lợi nhiều nhất là những doanh nghiệp FDI từ Trung Quốc (www.moit.gov.vn và nhipcaudautu.vn).
Và những hậu quả của nhiệt điện than giá rẻ
Duy trì điện sản xuất giá thấp còn dẫn đến sử dụng điện không hiệu quả. Tổng hợp từ số liệu của BP và WB cho thấy trung bình 10 năm qua, Việt Nam phải sử dụng lượng điện năng gấp 2,7 lần trung bình của thế giới để tạo ra 1 đô la tăng trưởng GDP. Tỷ lệ này của Việt Nam gấp 1,5 lần so với Ấn Độ; gấp 1,6 lần Trung Quốc; 1,8 lần Malaysia; 2,2 lần Hàn Quốc; 2,5 lần Thái Lan; 3,1 lần Philippines; 3,4 lần Indonesia; 3,9 lần Nhật Bản và 5,7 lần Singapore (hình 4).
Có thể thấy, việc duy trì giá nhiệt điện than theo cách “giá rẻ cưỡng bức” bằng cách trợ thuế BVMT để không tăng giá điện chủ yếu đem lại lợi ích cho hoạt động sản xuất công nghiệp tại Việt Nam. Điều này, suy cho cùng là gây thiệt hại cho nền kinh tế. Hậu quả của chính sách nhiệt điện than giá rẻ là ô nhiễm và suy thoái môi trường gia tăng. Một cách gián tiếp, chính sách này là thỏi nam châm thu hút công nghệ lạc hậu từ nước ngoài, trong khi gây lãng phí điện năng và tạo áp lực liên tục lên nguồn cung điện. Như một vòng luẩn quẩn không có lối ra, Việt Nam lại phải tiếp tục tìm nguồn vốn bổ sung nguồn điện mới, trông cậy vào nhiệt điện than để giải tỏa cơn khát điện…
Trong khi đó, người dân vừa phải trả thuế BVMT qua xăng dầu cao gấp vài trăm lần so với than đá, vừa phải trả giá điện cao hơn cho khối sản xuất, đồng thời phải tự trả giá cho ô nhiễm môi trường không phải do mình trực tiếp gây ra. Đó là nghịch lý kép, là những sự thật mà những người ủng hộ nhiệt điện than không muốn đề cập tới.
Việt Nam đã từng có cơ hội có nguồn điện sạch hơn nếu có một bản quy hoạch tốt hơn Quy hoạch điện 7 hiệu chỉnh và Quy hoạch điện 7 gốc. Thực tế đã chứng minh sự phụ thuộc an ninh năng lượng của Việt Nam vào nhiệt điện than hiện nay là một lựa chọn, không phải tự nhiên mà có.
Một là, tiếp tục phát triển nhiệt điện than, trợ giá điện cho sản xuất, và chấp nhận để nhiệt điện than ăn vào môi trường, đồng thời phụ thuộc ngày càng sâu hơn vào nó. Hai là, chọn nguồn điện sạch hơn, bỏ bù chéo giá điện để loại bỏ những công nghệ lạc hậu, thúc đẩy tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường.
Lựa chọn nào tốt hơn cho tương lai Việt Nam?
Nguyễn Đăng Anh Thi - Chuyên gia năng lượng và môi trường
(1) https://www.bp.com/en/global/corporate/energy-economics/statistical-review-of-world-energy.html
(2) https://data.worldbank.org/indicator/NY.GDP.MKTP.CD?most_recent_value_desc=true