Dự thảo Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) chưa quy định cụ thể về bảo vệ môi trường không khí; chưa có quy định về quyền của cá nhân cũng như đại diện cộng đồng dân cư trong yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước về môi trường và chủ dự án cung cấp các thông tin về môi trường… Những nội dung này cần được xem xét, bổ sung.
Đây là những nội dung đáng chú ý tại buổi Tọa đàm Góc nhìn của cộng đồng và chuyên gia đối với Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) sửa đổi do Liên minh Năng lượng bền vững Việt Nam (VSEA); Liên minh Công lý, Môi trường và Sức khỏe (JEH), Liên minh Phòng chống các bệnh không lây nhiễm (NCDs-VN), Mạng lưới sông ngòi Việt Nam (VRN) đồng tổ chức ngày 2-11.
Quy định về bảo vệ môi trường không khí chưa cụ thể
Đóng góp ý kiến vào Dự thảo Luật BVMT sửa đổi, TS. Bùi Đức Hiển, Viện Nhà nước và Pháp luật đã chỉ ra một số điểm mới cơ bản của Dự thảo Luật như đã bổ sung thêm nguyên tắc coi trọng giá trị tài nguyên trong chất thải; sửa đổi quy định về quy hoạch BVMT theo hướng phù hợp với Luật Quy hoạch; quy định rõ hơn về ứng phó với biến đối khí hậu… Những sửa đổi này trong Dự thảo Luật khá toàn diện, Ban Soạn thảo đã tiếp thu khá nhiều quan điểm tiến bộ nhằm xây dựng một đạo luật môi trường có hiệu lực, hiệu quả thúc đẩy phát triển bền vững đất nước, bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành.
Tuy nhiên, theo TS. Bùi Đức Hiển, Điều 66, Điều 67 của Dự thảo Luật quy định về quản lý bụi, khí thải và các chất ô nhiễm khác trong Dự thảo Luật còn quá sơ sài. Bụi, khí thải ở Việt Nam chủ yếu do các phương tiện giao thông, hoạt động công nghiệp, hoạt động xây dựng gây ra. Do vậy, cần phải kiểm soát được nguồn phát thải: với phương tiện giao thông cần nâng cao quy chuẩn về khí thải với phương tiện giao thông nhập mới hoặc sản xuất mới trong nước theo hướng đẩy nhanh hơn lộ trình thực hiện theo quy chuẩn khí thải, tiếng ồn của khu vực và quốc tế; với những phương tiện giao thông đã qua sử dụng không đạt tiêu chuẩn về khí thải phải quy định về trách nhiệm của chủ sở hữu phương tiện giao thông, các nhà sản xuất trong việc thực hiện các chính sách về đổi sản phẩm, thu hồi sản phẩm trên cơ sở hỗ trợ của Nhà nước và nhà sản xuất…
|
Đối với bụi thì phải quy định về trách nhiệm của các chủ thể làm phát sinh nguồn bụi, cơ quan quản lý nhà nước về môi trường trong việc phòng ngừa, giảm thiểu nguồn bụi, trách nhiệm của các chủ đầu tư, cơ quan xây dựng trong kiểm soát nguồn bụi từ hoạt động xây dựng, trách nhiệm của các chủ phương tiện, các doanh nghiệp vận tải, của thanh tra giao thông, môi trường trong kiểm soát nguồn bụi từ hoạt động của phương tiện giao thông… Tuy nhiên, Dự thảo cũng chưa quy định rõ trách nhiệm pháp lý của các tổ chức, cá nhân khi vi phạm quy định của pháp luật quản lý bụi, khí thải.
Trên cơ sở đặc của môi trường không khí, cần phải quy định rõ tính nguyên tắc của kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ngay từ khi lựa chọn lĩnh vực, ngành nghề đầu tư. Còn khi đã phê duyệt dự án đầu tư cần phải kiểm soát ô nhiễm ngay tại nguồn; kiểm soát ô nhiễm phải dựa trên sức chịu tải của môi trường không khí. Đồng thời, bổ sung quy định về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, chủ nguồn thải trong phòng ngừa, giảm thiểu, phát hiện, ngăn chặn, xử lý ô nhiễm môi trường không khí; quy định về giám sát các tổ chức, cá nhân chủ nguồn khí thải và giám sát các cơ quan quản lý nhà nước về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.
Cùng quan điểm này, bác sỹ Nguyễn Trọng An, Phó Giám đốc Trung tâm nghiên cứu và Phát triển môi trường sức khỏe (CHERAD) nhận định, trong bản Dự thảo Luật lần 2 có quy định về Kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí tại Điều 13. Tuy nhiên, trong các dự thảo gần đây, Điều 13 đã bị loại bỏ. Việc này đã gây mâu thuẫn với Điều 5 Chính sách của Nhà nước về bảo vệ môi trường.
Quy định không cung cấp thông tin về môi trường cộng đồng dân cư là chưa hợp lý
Theo TS. Bùi Đức Hiển, tại khoản 3 Điều 92 Dự thảo Luật quy định chủ dự án, cơ sở sản xuất kinh doanh,… có trách nhiệm cung cấp các thông tin về môi trường cho cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường mà không quy định về cung cấp cho tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư là chưa hợp lý.
“Chúng tôi cho rằng các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND cấp tỉnh không chỉ phải cung cấp thông tin môi trường cho Bộ Tài nguyên và Môi trường mà phải cung cấp thông tin môi trường cho các tổ chức, cộng đồng dân cư và cá nhân khi họ yêu cầu. Đồng thời phải quy định rõ về thời điểm cung cấp thông tin, hình thức cung cấp thông tin; thời hạn cung cấp thông tin,…; trách nhiệm của các chủ dự án, của các cơ quan nhà nước phải đảm bảo công khai, minh bạch và đặc biệt là trách nhiệm giải trình trong qua trình công bố thông tin cũng như cung cấp thông tin về môi trường và trách nhiệm pháp lý với các chủ thể này nếu không thực hiện cung cấp thông tin môi trường.
Đặc biệt là dự thảo Luật lại chưa quy định về quyền của cá nhân cũng như đại diện cộng đồng dân cư trong yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước về môi trường và chủ dự án cung cấp các thông tin về môi trường là một thiếu sót lớn chưa phù hợp với quy định của Luật Tiếp cận thông tin năm 2016”, TS. Hiển bày tỏ.
TS. Hiển cho rằng, Dự thảo cần quy định rõ quyền đại diện của cộng đồng dân cư cũng như cá nhân được yêu cầu các cơ quan nhà nước, chủ nguồn thải cung cấp các thông tin về môi trường. Đặc biệt cần phải quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường và các chủ nguồn thải phải minh bạch các thông tin về môi trường và trách nhiệm giải trình khi tổ chức, cá nhân yêu cầu.
Bác sỹ Nguyễn Trọng An, Phó Giám đốc Trung tâm nghiên cứu và Phát triển môi trường sức khỏe cho rằng, người dân cần được trao quyền giám sát và thông tin về chất lượng môi trường (ảnh V.H) |
Liên quan đến vấn đề công khai thông tin, TS. Hoàng Dương Tùng, Chủ tịch Mạng lưới không khí sạch Việt Nam cho rằng, cần công khai thông tin và quy định thời điểm công khai: các nội dung liên quan đến đánh giá tác động môi trường và giấy phép môi trường gồm báo cáo đánh giá tác động môi trường, kết quả thanh tra, kết quả quan trắc của các dự án vì phát triển bền vững là chính sách cơ bản của Đảng, Chính phủ. Công khai là tiền đề để đi vào chuyển đổi số trong thời kỳ cách mạng 4.0 và để tăng cường sự giám sát của cộng đồng. Tuy nhiên, tại Dự thảo đã bỏ điều 131 của Luật BVMT về công khai thông tin (công khai đánh gia tác động môi trường, kết quả thanh tra…).
“Chúng ta cần công khai và quy định thời điểm công khai thông tin, tránh trường hợp 10 năm sau mới công khai vẫn không sai. Đặc biệt, quá trình thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường, kết quả thanh kiểm tra cũng cần được công khai để cộng đồng, xã hội và các chuyên gia có dữ liệu giám sát, phản biện với những dự án tác động lớn về môi trường”, TS. Hoàng Dương Tùng nêu.
BS. Nguyễn Trọng An cho biết, trong toàn bộ chương XIII Dự thảo 7, không có điều khoản nào đề cập tới quyền và nghĩa vụ cụ thể của người dân trong giám sát chất lượng và thông tin bảo vệ môi trường. Điều này ngăn cản quyền giám sát trực tiếp của người dân đối với các nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Người dân phải có quyền được giám sát và thông tin về chất lượng môi trường và người dân sẽ tự chịu trách nhiệm về việc này.
Tại buổi tọa đàm, đại diện các mạng lưới, liên minh và tổ chức hoạt động trong lĩnh vực môi trường, năng lượng, sức khỏe và pháp lý tại Việt Nam nêu trên đã đề xuất đại biểu Quốc hội và các cơ quan có thẩm quyền xem xét, cân nhắc tạm dừng thông qua Dự thảo Luật BVMT trường (sửa đổi) tại kỳ họp Quốc hội lần thứ 10 này để có thêm thời gian nghiên cứu, hoàn thiện Dự thảo. Các tổ chức mong muốn có quy định cụ thể về công khai thông tin môi trường; Mở rộng đối tượng tham vấn trong đánh giá tác động môi trường bao gồm cả những cộng đồng không nằm trong khu vực dự án nhưng vẫn chịu tác động từ dự án và những tổ chức, cá nhân có quan tâm tới dự án; Bổ sung quy định về quyền giám sát trực tiếp của người dân; Cần có khung chính sách toàn diện, căn cơ về kiểm soát ô nhiễm không khí; Quy định lại chủ thể có trách nhiệm công khai; làm rõ thời hạn công khai, hình thức công khai và phương thức công khai báo cáo đánh giá tác động môi trường… |
Vân Hà
Theo báo Pháp luật và Xã hội