Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh

TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG CHỐNG CHỊU CHO VÙNG VEN BIỂN VIỆT NAM

  |   Viết bởi : Lê Thành Ý

Là một trong số các quốc gia phải đối mặt với nhiều thiên tai, vùng ven biển Việt Nam thường xuyên phải gánh chịu những hậu quả, gây thiệt hại đáng kể cả về con người và kinh tế. Tuy nhiên, các biện pháp quản lý rủi ro đến nay là chưa đủ, cần phải khẩn trương tìm kiếm giải pháp tăng cường khả năng chống chịu mới; nếu không, hàng tỉ đô la tăng trưởng kinh tế hằng năm sẽ bị cuốn trôi bởi các thảm họa khôn lường.

Gần đây, bão lũ hoành hành dữ dội ở các tỉnh miền Trung là bằng chứng cho thấy xu hướng đáng lo ngại về rủi ro thiên tai. Chính phủ Việt Nam đã phối hợp cùng Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Toàn cầu về Giảm nhẹ & Phục hồi Thiên tai xây dựng và công bố báo cáo Tăng cường khả năng chống chịu cho khu vực ven biển. Báo cáo đề cập đến những số liệu thống kê đáng báo động về mức độ dễ bị tổn thương của khu vực ven biển cùng với các chủ thể và những đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề; báo cáo cũng đã phác họa một kế hoạch hành động với 5 lĩnh vực chiến lược cần được triển khai khẩn trương và dứt khoát. Bài viết tổng hợp một số vấn đề nổi bật của báo cáo này..

Thiên tai và tác động đối với khu vực ven biển Việt Nam

Là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của thiên tai, khu vực ven biển Việt Nam đứng trước những rủi ro lớn do bão lũ, nước biển dâng, lũ sông, sạt lở bờ biển, hạn hán và xâm nhập mặn. Bất chấp rủi ro do thiên tai, khu vực ven biển vẫn trên đà phát triển, cung cấp sinh kế cho cư dân đô thị , nông thôn ngày một gia tăng và trở thành động lực phát triển kinh tế-xã hội quan trọng. Do tốc độ đô thị hóa và kinh tế tăng trưởng nhanh trong bối cảnh biến đổi khí hậu (BĐKH)với những rủi ro khó lường đã dẫn đến không ít hiểm họa.

Theo ước tính, đến nay có trên 12 triệu người sống ở các tỉnh ven biển đang chịu ảnh hưởng từ nguy cơ của các trận bão, lũ với hơn 35% số nhà ở nằm trong các khu vực bị xói lở. Trung bình hàng năm, tổn thất do lũ lụt ven sông và ven biển đã lên trên 852 triệu USD (tương đương 0,5% GDP cả nước ) và hơn 316.000 việc làm trong các lĩnh vực kinh tế chủ chốt bị ảnh hưởng. Ngoài ra, việc cung cấp các dịch vụ thiết yếu cũng bị gián đoạn vào những thời điểm cần thiết. Ngập lụt nghiêm trọng đã ảnh hưởng trực tiếp tới 26% số bệnh viện công và trạm xá cùng 11% các trường học trong khu vực. Hơn 1/3lưới điện của Việt Nam được đặt tại khu vực ven biển cũng đứng trước nguy cơ bị hư hỏng do bão lũ (Ngân hàng Thế giới 2020).

Cho dù việc quản lý rủi ro đã đạt được một số tiến bộ, nhưng Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức. Những tồn tại chính được chỉ ra bao gồm: Thông tin về rủi ro còn thiếu và rời rạc; các quy định có liên quan như quy hoạch không gian, quy chuẩn xây dựng, tiêu chuẩn an toàn và bảo trì hệ thống cơ sở hạ tầng thực thi kém hiệu quả. Trên 2/3 hệ thống đê biển hiện không đáp ứng đủ các yêu cầu an toàn theo quy định. Cơ sở hạ tầng và các dịch vụ công cũng đứng trước những nguy cơ tương tự, đồng nghĩa với việc cung cấp dịch vụ có thể bị gián đoạn trong những thời điểm cần thiết nhất.

Chính phủ đã có những cam kết và đạt được thành tựu đáng kể trong quản lý và giảm nhẹ rủi ro thiên tai, nhưng xu hướng gần đây cho thấy, vẫn cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa mới có thể đạt được hành động hiệu quả trong tương lai. Phân tích đa chiều về rủi ro do thiên tai và rà soát những nỗ lực quản lý thời gian qua cho thấy, kế hoạch hành động phù hợp để hài hòa rủi ro và cơ hội phát triển là rất cần thiết. Nếu thực hiện hành động một cách quyết đoán, đây sẽ là cơ hội để tăng cường khả năng chống chịu cho cộng đồng dân cư trong phát triển kinh tế biển và mang lại thịnh vượng cho các thế hệ mai sau (Chính phủ Việt Nam, W.B 2020)

Rủi ro thiên tai đối với cộng đồng trong phát triển kinh tế ven biển là rất đáng kể và đang ngày một gia tăng. Phân tích rủi ro thiên tai mà người dân, các đô thị, ngành kinh tế chủ chốt, hệ thống cơ sở hạ tầng và ngành dịch vụ công ở ven biển đang phải đối mặt cho thấy, khu vực này vốn đã có hơn1/3 dân số cả nước sinh sống với cơ sở hạ tầng ngày càng phát triển sẽ phải gánh chịu rủi ro cao; nhiều ngành kinh tế nền tảng cho phát triển và thịnh vượng trong tương lai phải đối mặt với xu hướng rủi ro ngày càng trầm trọng.

Do ảnh hưởng của lũ sông và lũ ven biển, mỗi năm, ngành nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, du lịch và công nghiệp bị thiệt hại tương đương với 0,5% GDP cả nước; những dịch vụ công thiết yếu cũng đứng trước rủi ro cao. Ngoài dịch vụ công, hàng năm bão lũ gây ngập lụt làm thiệt hại cơ sở hạ tầng giao thông vận tải khoảng 144 triệu USD và chừng 330 triệu USD đối với cơ sở hạ tầng năng lượng. Cơ sở hạ tầng bị ảnh hưởng do thiên tai cũng cản trở người dân tiếp cận với việc làm, giáo dục, y tế và ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Cơ sở hạ tầng thiếu kiên cố và khả năng chống chịu thấp ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động doanh nghiệp và gây thiệt hại khoảng 280 triệu USD mỗi năm. Ngoài ra, biến đổi khí hậu  (BĐKH) được dự báo sẽ làm gia tăng rủi ro do lũ, hạn hán, sạt lở ven bờ và xâm nhập mặn (Chính phủ Việt Nam, W.B 2020).

Với kịch bản BĐKH cao, mực nước biển sẽ tăng thêm 30cm vào năm 2050 và lên 70cm vào năm 2100, mức độ rủi ro do lũ có thể tăng tới 7%, ảnh hưởng đến thêm 4,5 triệu người sống gần khu vực ven biển. Nếu không có hành động kịp thời, áp lực từ hoạt động con người lên hệ sinh thái, sẽ làm rủi ro thiên tai còn gia tăng mạnh mẽ hơn nhiều.

Các biện pháp quản lý rủi ro của Việt Nam hiện chưa đáp ứng đủ nhu cầu đòi hỏi. Thiếu hướng dẫn, chưa đủ năng lực thực thi và nguồn lực tài chính giới hạn, dẫn đến nhiều hạn chế trong thực hiện quy hoạch không gian tích hợp rủi ro, quy chuẩn xây dựng, tiêu chuẩn an toàn và duy tu bảo dưỡng hệ thống cơ sở hạ tầng. Đến nay, hệ thống đê, trải dài trên 2.659 km, không đáp ứng được tiêu chuẩn an toàn. Do phát triển và khai thác quá mức tài nguyên, các biện pháp dựa vào tự nhiên, chưa đáp ứng được yêu cầu tăng cường khả năng chống chịu, khiến vùng ven biển đang chịu áp lực ngày càng lớn trước những rủi ro.

Rủi ro thiên tai gia tăng buộc Chính phủ phải tăng cường hơn nữa các biện pháp tài chính, cứu trợ và ứng phó. Với đà tăng trưởng hiện nay, nếu chậm triển khai các hoạt động 10 năm thì nền kinh tế sẽ chịu thiệt hại thêm tới 4,3 tỷ USD. Để khu vực ven biển đáp ứng được yêu cầu là động lực phát triển kinh tế và thịnh vượng, đòi hỏi Chính phủ phảỉ khẩn trương hành động (Ngân hàng Thế giới 2020).

Tăng cường khả năng chống chịu của khu vực ven biển - Đề xuất  của các nhà nghiên cứu

Nhằm tăng cường khả năng chống chịu cho khu vực ven biển, các nhà nghiên cứu đã đề xuất một kế hoạch hành động cụ thể, bao gồm năm lĩnh vực can thiệp chiến lược dưới đây::

Một là cải thiện công cụ dữ liệu và ra quyết định. Để quản lý rủi ro hiệu quả, nhà hoạch định chính sách cần có thông tin cập nhật kịp thời. Hệ thống thông tin tích hợp một cách hệ thống từ Trung ương đến các địa phương đóng vai trò quan trọng trong việc đưa ra quyết định. Bằng cách xây dựng cơ sở dữ liệu có thể truy cập công khai và hệ thống đối với cơ sở hạ tầng sẽ tạo thuận lợi cho việc ra quyết định của các nhà quản lý và doanh nghiệp

Hai là cân nhắc rủi ro trong quy hoạch phân vùng và không gian. Để thúc đẩy tăng trưởng khu vực ven biển không ảnh hưởng đến phát triển chung, cần có quy hoạch phân vùng và không gian có lồng ghép các yếu tố rủi ro, đồng thời vẫn cần dựa vào những thông tin sẵn có 

Thứ ba là tăng cường khả năng chống chịu của hệ thống cơ sở hạ tầng và dịch vụ công, Nhằm bảo đảm hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu và cung cấp dịch vụ đầy đủ, các công trình trọng yếu phải được tăng cường bằng việc tích hợp thông tin rủi ro thiên tai vào quy trình lập kế hoạch, thiết kế, duy tu bảo dưỡng trong các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng. Việc nâng cấp cần bắt đầu từ những khu vực có rủi ro cao nhất; bên cạnh đó, cũng cần rà soát và cập nhật  đầy đủ các tiêu chuẩn an toàn hiện nay.

Bốn là tận dụng các giải pháp dựa trên tự nhiên bằng cách khai thác khả năng bảo vệ và đóng góp vào phát triển kinh tế sinh thái một cách hệ thống. Để khai thác khả năng bảo vệ và đóng góp cho nền kinh tế của hệ sinh thái rừng ngập mặn và cồn cát, cần có phương pháp tiếp cận tổng thể nhằm phục hồi, bảo tồn, giám sát và quản lý các hệ sinh thái. Theo đó, phải tăng cường chính sách, quy định, khung thể chế có liên quan và tăng cường củng cố bài học rút ra từ những sáng kiến trước đây,để đưa ra hướng dẫn kỹ thuật và chương trình nâng cao kỹ năng phù hợp trong tương lai.

Sau cùng là nâng cao năng lực phòng ngừa và ứng phó với thiên tai . Để giải quyết rủi ro thiên tai và tăng cường năng lực phòng ngừa, giới nghiên cứu cho rằng, cần phải tăng cường hơn nữa năng lực ứng phó khẩn cấp. Những biện pháp này bao gồm: Nâng cấp hiệu quả hệ thống cảnh báo sớm; nâng cao năng lực ứng phó của địa phương; có cơ chế an sinh xã hội phù hợp và thực hiện chiến lược tài chính quản lý toàn diện rủi ro thiên tai.

Thay cho lời kết

Việt Nam có bờ biển dài hơn 3.000 km, vùng ven biển với thiên nhiên trù phú mang lại sinh kế cho khoảng 47 triệu người , tương đương với một nửa dân số cả nước. Tuy nhiên, đây lại là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất trước những thảm họa thiên nhiên.

Kinh nghiệm ứng phó với thiên tai thông qua cách tiếp cận quy hoạch dài hạn đã được minh chứng. Nó đóng vai trò quan trọng trong thực thi Chiến lược tăng cường khả năng chống chịu của các vùng ven biển. Thông qua những hành động quyết đoán, Việt Nam đang mở rộng cơ hội đảm bảo an toàn cho phát triển và thịnh vượng tương lai.

Để đạt được mục tiêu phát triển bền vững cho vùng ven biển, Tổng Cục trưởng Tổng cục Phòng chống Thiên tai Việt Nam, Trần Quang Hoài cho rằng “…Chúng ta không thể bỏ qua những thách thức từ các cú sốc thiên nhiên và biến đổi khí hậu;cần phải đầu tư để nâng cao khả năng thích ứng nếu muốn đạt được mục tiêu thịnh vượng kinh tế."

Nhằm tăng cường khả năng thích ứng và củng cố sự thịnh vượng của người dân ven biển và cho các thế hệ mai sau, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, Carolyn Turk cho rằng "Nếu tiếp tục xu hướng phát triển kinh tế nhanh ở các khu vực có nguy cơ cao như hiện nay thì thiệt hại do thiên tai sẽ gia tăng. Đã đến lúc cần có cách tiếp cận mới nhằm cân bằng giữa rủi ro và cơ hội để các khu vực ven biển Việt Nam có thể tiếp tục là động lực tăng trưởng, đồng thời vẫn đảm bảo khả năng chống chịu với các cú sốc."

Chính phủ Việt Nam có cơ hội hành động quyết liệt trước những rủi ro thiên tai, để bảo vệ sự phát triển trong tương lai. Kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn về rủi ro thiên tai, cũng như các phương pháp lập kế hoạch dài hạn đã được kiểm chứng. Hy vọng từ  những yếu tố quan trọng để xây dựng và thực hiện một chiến lược phát triển có khả năng chống chịu gợi ra, vùng ven biển nước nhà sẽ vững bước đi lên, tạo đà thúc đẩy kinh tế cả nước phát triển để đến năm 2045 sẽ thu hẹp khoảng cách và đứng trong hàng ngũ của các quốc gia phát triển./.

Tài liệu tham khảo chính

Chính phủ Việt Nam, W.B (2020)   Tăng cường khả năng chống chịu triển khu vực Ven biển–

 Cơ hội và rủi ro thiên tai; báo cáo tổng hợp công bố ngày 21 tháng 10 năm 2020

Ngân hàng Thế giới (2020). Khẩn trương xây dựng chiến lược tăng cường khả năng

chống chịu mới cho ven biển Việt Nam;    Thông cáo báo chí ; Hà nội ngày 21 tháng 10

---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Địa chỉ liên lạc Lê Thành Ý 19b/668  Đường Lạc Long Quân, Ph, Nhật Tân ;Q.Tây Hồ, Hà Nội

Mob 0829848231; Email lethanhy05@gmail.com