Phát triển kinh tế cacbon thấp là xu thế mới hướng tới thực hiện mục tiêu phát triển bền vững,nhiều nước đang phát triển đang nỗ lực chuyển dịch sang năng lượng tái tạo, coi đó là phương thức tìm kiếm lợi thế trong phát triển hạ tầng. Chuyển đổi năng lượng tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế nhưng cũng gây ảnh hưởng bất lợi đến một số một số lĩnh vực và người lao động.
Từ xu thế chuyển dịch năng lượng ở khu vực châu Á, bài viết đề cập đến một số nét khái quát về tiếp cận điện năng và chính sách năng lượng bền vững của một số nước trong khu vực và ở Việt Nam, nhằm góp phần vào tìm kiếm giải pháp thích hợp trong chuyển dịch năng lượng công bằng.
Tiếp cận điện năng và xu thế gia tăng NLTT ở các quốc gia châu Á
Châu Á chiếm gần ½ dân số thế giới, có ảnh hưởng lớn đối với xu hướng môi trừơng và năng lượng toàn cầu. Những lựa chọn năng lượng trong khu vực không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn tác động mạnh mẽ đến việc làm, an sinh xã hội và nhất là chất lượng môi trường.
Phần lớn tăng trưởng kinh tế của châu Á dựa vào nhiên liệu hóa thạch và lượng khí CO2 của khu vực chiếm gần ½ lượng phát thải toàn cầu. Hệ thống năng lượng giữ vai trò cốt lõi trong phát triển kinh tế hiên đại, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm công bằng xã hội và tiềm năng của nền kinh tế. Thiếu khả năng tiếp cận điện năng sẽ cản trở quá trình tăng trưởng và hạn chế cơ hội phát triển của toàn xã hội.
Theo các nhà phân tích, chuyển dịch năng lượng công bằng là việc đảm bảo cung cấp năng lượng thích hợp cả về kinh tế và xã hội cho mọi người dân, nó liên quan đến cơ hội, tiềm năng của các ngành và doanh nghiệp trên thị trường. Hoạt động này còn liên quan đến dấu chân môi trường và khả năng cung ứng của các nguồn năng lượng. Dễ dàng nhận thấy, gia tăng nhanh sử dụng nhiên liệu hóa thạch đã gây ô nhiễm và tình trạng nóng lên của hành tinh đang sống. Tại các quốc gia châu Á, ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng, là một trong những nguyên nhân chính làm tăng số người mắc bệnh mạn tính, dẫn đến tỷ lệ tử vong cao.
Với dân cư chiếm 60% dân số toàn cầu và nhu cầu về tài nguyên, nhiên liệu tăng cao; thách thức chuyển dịch năng lượng của khu vực châu Á ngày càng trở nên nặng nề. Xu hướng gia tăng dân số cùng với chuyển dịch theo quy mô lớn từ nông thôn về các đô thị, dẫn đến ô nhiễm môi trường ngày càng thêm nặng. Việc sử dụng phổ biến nhiên liệu hóa thạch, nhất là than đá trong khu vực, khiến lượng thải khí CO2 bình quân đầu người tăng mạnh và thu hẹp dần khoảng cách so với các nước công nghiệp phát triển. Đến nay, mức phát thải CO2 bình quân đầu người ở Hàn Quốc đã lên tới 11,8 tấn/năm, vượt qua Nhật ản (9,8 tấn) và Trung Quốc (7,6 tấn).... ,cao gấp nhiều lần giới hạn bình quân (2 tấn/người) để đảm bảo khả năng có thể kiểm soát ô nhiễm trên thế giới ( Xem bảng 1).
Bảng 1: Mức phát thải CO2 bình quân đầu người của một số nước châu Á
Đơn vị tấn/người
Nước |
Tr. Quốc |
Ấn Độ |
Indonesia |
Nhật Bản |
Hàn Quốc |
Ơhilippine |
Thái Lan |
Việt Nam |
CO2(tân/ng) |
7,6 |
1,6 |
1,9 |
9,8 |
11.7 |
1,0 |
4,4 |
1,7 |
Nguồn http://data.woldbank.org/indicator/EN.ATM.CO2E.PC
Mặc dù mức phát thải CO2 bình quân đầu người ở một số nước chưa cao, song tỷ trọng phát thải so với toàn cầu của châu Á lại rất lớn và theo chiều hướng tăng nhanh. Tỷ trọng CO2 của 8 nước trong bảng 1 chiếm tới 44,5% tổng lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu; riêng Trung Quốc lên tới 29,5% và Ấn Độ 6,8%. Lượng phát thải CO2 và thứ hạng toàn cầu của một số nước khu vực châu Á được thể hiện trong bảng 2
Bảng 2 Phát thải CO2 của một số nước khu vực vhaau Á trong năm 2015
Đơn vị Kilotone,%
Quốc gia |
Trg Quốc |
Ấn Độ |
Nhật Bản |
H. Quốc |
Indonesia |
Thái Lan |
Việt Nam |
Philippin |
CO2(Kiloton) |
10.641,789 |
2.454;986 |
1,252,89 |
617,285 |
502,961 |
279,253 |
206,028 |
113,035 |
% so toàn cầu |
29,51 |
6,81 |
3,47 |
1,71 |
1,39 |
0,77 |
0,57 |
0,31 |
Thứhạng t.cầu |
1 |
3 |
5 |
8 |
11 |
21 |
28 |
36 |
Nguồn EC 2016 http://edgar.jrc.ec.europa.eu/new.doc/jrc-2016-trend-in-global-CO2-emission-2016-report-103425.pdf
Tác động tiêu cực của nhiên liệu hóa thạch đối với chi phí môi trường và sức khỏe con người chưa được phản ánh đầy đủ trong giá nhiên liệu. Điều này ảnh hưởng lớn đến tính toán hiệu quả kinh tế của những nguồn năng lượng cần tìm để thay thế nhiên liệu hóa thạch.Là loại năng lượng sạch,NLTT có thể cung cấp cho các khu vực ở vùng sâu vùng xa, chưa được kết nối với lưới điện, giúp giảm chi phí mở rộng không gian sử dụng điện. Thay vì phải trả tiền nhập nhiên liệu hóa thạch, phát triển NLTT có thể bảo tồn được vốn đầu tư cho hoạt động kinh tế địa phương, đem lại tác động tích cực cho nền kinh tế. Phát triển NLTT cùng với những sáng kiên liên quan có thể tạo thêm nhiều việc làm cả trong xây dựng, vận hành, chăm sóc, bảo hành, tư vấn, dịch vụ...
Phân tích quá trình chuyển dịch cơ cấu năng lượng của các nước trong khu vực châu Á, giới nghiên cứu nhận xét, phổ cập sử dụng điện năng là một trong những mục tiêu quan trọng trong các chính sách quốc gia. Tuy nhiên, nhóm người nghèo yếu thế thường bị hạn chế trong tiếp cận giáo dục về BĐKH, giải pháp năng lượng và khả năng chi trả cho thiết bị tiết kiệm năng lượng. Do bối cảnh kinh tế, địa lý và chính trị đa dạng, các quốc gia khu vực có cơ hội chuyển dịch năng lượng, nhưng các rào cản đan xen cũng là thách thức không nhỏ. Ở nhiều nước, chính quyền Trung ương có quyền lực tập trung, còn các tổ chức dân sự lại nhỏ yếu hoặc phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ.
Cùng với sự thịnh vượng trong quá trình phát triển, ở nhiều nước lại có sự khác biệt đáng kể về khả năng tiếp cận điện năng, Tại Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc 100% số dân được tiếp cận, tỷ lệ này đạt 99% ở Thái Lan, Viêt Nam 98%, Philippines 89%, Indonesia 84% và Ấn Độ ở mức 81%. (Miranda A. Schreurs et al 2017).
Chính phủ nhiều nước trong khu vực đã ban hành kế hoạch phát triển trung hạn hoặc xây dựng thành các chương trình, dự án phát triển năng lương với tầm nhìn định hướng rõ ràng. Do mức độ sử dụng các dạng năng lượng truyền thống đã vượt khỏi mục tiêu đề ra và chi phí NLTT giảm mạnh; trong các kế hoạch gần đây, chính phủ nhiều nước ngày càng quan tâm đến phát triển bền vững, tăng trưởng xanh và năng lượng tái tạo.
Kế hoạch thay thế năng lượng của chính phủ Thái Lan đặt mục tiêu đến năm 2036 sẽ nâng mức tiêu thụ NLTT lên 30% tổng năng lượng tiêu thụ sau cùng. Chính phủ Indonesia ban hành Chính sách Năng lượng Quốc gia với kế hoạch tăng cường năng lượng sơ cấp. Theo đó, tỷ trọng NLTT mới chiếm 23%,. Việt Nam đã ban hành nhiều kế hoạch nêu rõ nhu cầu và chiến lược phát triển năng lượng; Quy hoạch điện VII (điều chỉnh) đã đưa tỷ trọng NLTT phi thủy điên lên 17,6% tổng năng lượng điện vào năm 2030. Tại Nam Á, Chính phủ Ấn Độ đã đưa tỷ trọng NLTT trong tổng công suất điện năm 2030 lên 40% . Kế hoạch Điện lực Quốc gia của quốc gia này nhấn mạnh, không xây dựng thêm bất ký một nhà máy điện than nào trong 10 năm tới và nâng công suất NLTT lên 175 GW trong năm 2022 (Miranda A.Scheurs et al 2017)
NLTT ngày càng thu hút được sự quan tâm rộng lớn của toàn xã hội, Chính phủ nhiều nước đã đưa ra mục tiêu và những biện pháp thúc đẩy phát triển mạnh mẽ. Gần đây, thế giới đã chứng kiến sự bùng nổ NLTT ở Trung Quốc và Ấn Độ. Cả 2 quốc gia này đều đầu tư lớn vào điện gió và điện mặt trời. Sau sự cố nhà máy điện hạt nhân Fukushima, Nhật Bản đã công bố cơ chế hỗ trợ NLTT. Chính phủ Hàn Quốc tuyên bố từ bỏ năng lượng hạt nhân và hướng vào phát triển NLTT. Tại Đông Nam Á, Thái Lan thực hiện kế hoạch chuyển dịch năng lượng mang tên “Năng lượng Thái Lan 4.0” tập trung vào công nghệ thông tin; Indonesia, Philippines ngày càng quan tâm hơn đến hoạt động đầu tư cho NLTT và Việt Nam đã mở cửa cho người nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này..
Ở nhiều quốc gia trong khu vực, vị trí của NLTT đã được cải thiện rõ rệt. Trung Quốc đã trở thành nước dẫn đầu thế giới về công suất lắp đặt NLTT, đến năm 2016, tổng công suất điện gió ở đất nước này đã lên tới 169 GW, chiếm 34,7% công suất lắp đặt toàn cầu. Với tổng công suất đạt 28,7GW(chiếm 5,9% công suất điện gió thế giới), Ấn Độ đứng ở vị trí thứ tư sau Mỹ và CHLB Đức. Đến năm 2016, khu vực châu Á đã dẫn đầu thế giới về NLTT với nguồn năng lượng tạo ra chiếm 58% tổng NLTT mới toàn cầu.
Phát triển NLTT đã tạo việc làm mới đang kể ở các quốc gia, Chính phủ nhiều nước đã có giải pháp hỗ trợ cần thiết để tạo việc làm. Theo cơ quan NLTTquốc tế (IRENA), năm 2016, lĩnh vực này đã tạo được 8,1triệu việc làm mới. Trong đó, Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản chiếm trên 53,1% (4,304 triệu).
3. Cơ hội và thách thức đối với việt Nam trong chuyển dịch năng lượng công bằng
Chuyển dịch năng lượng là quá trình chuyển đổi từ phụ thuộc nhiều vào nhiên liệu hóa thạch sang phát triển và sử dụng hiệu quả và tiết kiệm những nguồn năng lượng mới hướng tới giảm thiểu sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch và các nguồn năng lượng phải nhập khẩu. Quá trình chuyển đổi năng lượng gắn liền với chuyển dịch lao động. Sự tham gia đa dạng của nhiều thành phần xã hội, đòi hỏi phải có sự điều tiết nhằm đảm bảo hài hòa lợi ích,đó là yếu tố cốt lõi của chuyển dịch năng lượng công bằng(Ngụy thị Khanh et al 2019)
Việt Nam là một nền kinh tế có tốc độ tăng trương cao, nhưng ngày càng phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch và đặc biệt dễ bị tổn thương trước những ảnh hưởng của BĐKH. Phân tích hoạt động năng lượng tại Việt Nam có thể nhận thấy, ngành này có những đặc thù chi phối đến quá trình chuyển dịch. Trước tiên,các chính sách đưa ra và được thực hiện hầu hết theo hướng từ trên dội xuống; tiếp theo là sự phát triển đất nước chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên , lao động giá rẻ và nhiên liệu hoá thạch (than,dầu khí...) đóng vai trò rất quan trọng. Trong khi các quốc gia khu vực châu Á đã cấm hoặc giảm mạnh đầu tư vào nhiệt điện than, nhiều nhà đầu tư và sản xuất thiết bị điện than ở nước ngoài lại tìm cách chuyển đến Việt Nam với giá thấp. Theo viện nghiên cứu Friedrich Ebert Stiftung (FES), 50% đầu tư nhiệt điện than (NĐT) đến từ Trung Quốc, 28% từ Nhật Bản và 18% từ Hàn Quốc (Koos Neefjes et al 2017). Ngoài ra, trước thâm hụt nợ công gia tăng, nguồn vốn nhà nước Việt Nam đầu tư cho năng lượng có xu hướng ngày càng khan hiếm.
Trong bối cảnh khó khăn của nền kinh tế, nhằm tìm kiếm giải pháp xây dựng năng lượng công bằng và hiệu quả, Bộ công nghiệp đã hình thành Quy hoach Điện VII được điều chỉnh vào tháng 3 năm 2016 và các tổ chức xã hội đã xây dựng một số kịch bản chuyển dịch từ sử dụng năng lượng than nhập khẩu sang phát triển những nguồn năng lượng tái tạo phi thủy điện.
3.1. Chuyển dịch năng lượng công bằng, hướng đi phù hợp đối với Việt Nam.
Từ quan ngại về môi trường,an ninh năng lượng và nhu cầu điện ở các vùng thiếu năng lượng, trong xu thế giá NLTT phi thủy điện ngày càng giảm, gia tăng sử dụng loại năng lượng này có thể là hướng đi thích hợp để hình thành cơ cấu năng lượng đảm bảo công bằng xã hội và bảo vệ môi trường tốt hơn.
Nhằm làm rõ những khía cạnh kinh tế xã hội của NLTT, các kịch bản chuyển dịch năng lượng trong giai đoạn từ 2016 đến 2030 của cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức xã hội nước ta đã tập trung vào xem xét vấn đề có liên quan cả về lợi ích kinh tế xã hội và môi trường. Trên cơ sở này, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những kiên nghị chuyển dịch năng lượng gắn với công bằng xã hội.
Từ những kịch bản đề xuất theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh(QHĐVII ĐC), kịch bản NLTT (B&RE) và kết hợp NLTT với sử dụng năng lượng tiết kiệm( EE&BR), có thể nhận thấy, các phương án nêu ra đã nâng công suất điên NLTT phi thủy điện từ 1,4% đến 3,75% (năm 2020) lên 16% đến 25,5% 10 năm sau đó (2030) và nhiệt điện than giảm mạnh trong giai đoạn từ 2025 đến 2030 với tỷ trọng tứ 49,3% (QHĐVII) xuống chỉ còn 24,4% tổng công suất điện ( kịch bản EE&RE 2030) .Xem bảng 3
Bảng 3 Cơ cấu công suất phát điện trong giai đoạn 2016-2010 của các kịch bản nguồn điện phân tích
Đơn vị GW,%
Kịch bản Nguồn điện |
QHĐVII ĐC |
NLTT(B&RE) |
Kết hợp tiết kiệm &NLTT |
Ghi chú |
Năm 2015 Tổng công suất (GW) Trong đó Điện than % NLTT phi thủy điện % |
38,9 33,2 13,4 |
38,9 33,5 12,1 |
38,9 33,6 12,1 |
Tính toán từ số liệu gốc của GreenIDvà FES năm 2019 |
Năm 2020 Tổng công suất (GW) Trong đó Điện than % NLTT phi thủy điện % |
60,0 43,3 3,75 |
57,2 45,4 1,54 |
57,13 45,45 1,42 |
Tính toán từ số liệu gốc của GreenIDvà FES năm 2019 |
Năm 2025 Tổng công suất (GW) Trong đó Điện than % NLTT phi thủy điện % |
96,4 49,33 7,42 |
80,42 31,88 13,1 |
72,16 35,5 14,23 |
Tính toán từ số liệu gốc của GreenIDvà FES năm 2019 |
Năm 2030 Tổng công suất (GW) Trong đó Điện than % NLTT phi thủy điện % |
129,5 42,7 16,0 |
123,48 34,2 22,8 |
195,13 24,4 25,5 |
Tính toán từ số liệu gốc của GreenIDvà FES năm 2019 |
Nguồn Phân tích từ sô liệu công bô trong tài liệu chuyển dịch năng lượng công bằng Cơ hội và thách thức cho VN 2019
Kết quả nghiên cứu chi phí sản xuất của các phương án theo giá năm 2015 cho thấy, kịch bản phát triển theo QHĐVIIĐC có tông chi phí cao nhất lên tới 107,4 tỷ USD ( cao hơn 16% kịch bản NLTT B&RE và 43% so với kịch bản EE&RE) với mức giá bình quân 9,56 cent USD/kWh cao hơn 36% so với kịch bản B&RE (Ngụy Thị Khanh et al 2019).
Theo các nhà phân tích, chuyển dịch năng lượng từ phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch sang mở rộng ứng dụng hiệu quả năng lượng và sử dụng NLTT sẽ mang lại cơ hội lớn cho Việt Nam cả về kinh tế, xã hội và môi trường.
Chuyển dịch cơ cấu năng lượng theo hướng NLTT sẽ đảm bảo mức độ đa dạng của nguồn cung, giảm tỷ trọng năng lượng hóa thạch và giảm nguồn năng lượng nhập khẩu. Chuyển sang lượng sang sử dụng NLTT nhiều hơn sẽ đóng góp tích cực vào cải thiện môi trường, giảm thiểu rủi ro sức khỏe cộng đồng với tổng lượng bụi và bụi mịn (PM10 và PM2.5) có thể giảm tới 48% vào năm 2030. Kết quả tính toán còn cho thấy, nếu sử dụng kịch bản EE&RE, vào năm 2030 sẽ giảm được 126,6 triệu tấn CO2 tương đương 40,5% lượng phát thải của kịch bản phát triển điện than trong QĐVIIĐC.
Việc hình thành những nhà máy điện sử dụng NLTT ở vùng sâu, vùng xa tạo thuận lợi để cải thiện hạ tầng giao thông, thông tin liên lạc; tạo động lực phát triển, giúp thu hẹp khoảng cách cho các địa phương chậm phát triển và nhất là gia tăng cơ hội cải thiện đời sống của nhóm người yếu thế ở các vùng khó khăn.
Mở rộng sử dụng các nguồn NLTT trong dài hạn sẽ mang lại cơ hội tạo việc làm trong giai đoạn xây lắp, vận hành và bảo dưỡng tại các cơ sở sản xuất NLTT. Số lượng việc làm theo ước tính bình quân hàng năm (từ năm 2026 đến 2030) có thể lên trên 64.700 đối với kịch bản NLTT B&RE. Cùng với công việc tạo ra, chất lượng việc làm sẽ được cải thiện nhờ môi trường làm việc trong lành, ít bụi bẩn và giảm rủi ro sức khỏe của người lao động,
Dịch chuyển từ điện than sang phát triển NLTT là cơ hội mở ra đối với Việt Nam. Đây là một hướng đi phù hợp với xu thế thời đại, là việc làm thiết thực để thực hiện mục tiêu tăng trưởng bền vững, tạo việc làm có chất lượng trong xây dựng ngành năng lượng tiên tiến.
3.2. Rủi ro và thách thức trong chuyển dịch năng lượng công bằng
Cấu trúc hệ thống năng lượng có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm công bằng xã hội và tiềm năng kinh tế. Thiếu khả năng tiếp cận điện năng dẫn đến cản trở quá trình phát triển kinh tế, hạn chế cơ hội cho cả cá nhân và toàn xã hội. Mặc dù cơ hội và lợi ích của chuyển dịch cơ cấu năng lượng từ tài nguyên hóa thạch sang dùng NLTT có nhiều, song theo nhiều phân tích, những thách thức cũng không hề nhỏ. Những khó khăn, thách thức trong hoàn cảnh Việt Nam được tập trung trung vào: Rủi ro sử dụng đất đai; sinh kế và việc làm cho cộng đồng tại các địa phương bị ảnh hưởng, nguồn nhân lực kỹ thuật cho chuyển đổi và đảm bảo phúc lợi cho người lao động.
Kết quả nghiên cứu của các tổ chức hoạch định chính sách phát triển đã chỉ ra, phụ thuộc theo kịch bản phát triển, đến năm 2030 diện tích đất đai cho phát triển điện sạch cần từ 53.800 ha đến 73.500 ha. Trong đó, phương án chuyển mạnh sang năng lượng tái tạo là cao nhất, do diện tích chiếm đất nhiều hơn của điện gió và điện mặt trời..
Thực tế phức tạp trong việc thu hồi đất, nhất là rủi ro trên các địa bàn phát triển gần đây cho thấy, đây là vấn đề bức xúc làm nảy sinh những mâu thuẫn xã hội trong quá trình phát triển. Kinh nghiệm rút ra cho thấy, rủi ro này có thể khắc phục được bằng các giải pháp tích hợp, đa mục tiêu, đa lợi ích được nghiên cứu và triển khai với sự tham gia của các bên liên quan và đặc biệt là người dân trong các vùng dự án.
Tác động lớn nhất trong chuyển dịch điên năng ở các vùng dự án là sinh kế của người bản địa đây luôn là vấn đề phức tạp và tồn tại nhiều bất cập liên quan đến thu hồi đất và tái định cư.
Việc đào tạo và hỗ trợ thiếu hiệu quả dẫn đến nhiều bức xúc xã hội và trở thành căn nguyên phản đối của người dân và dư luận xã hội. Nếu không thực hiện nghiêm túc các quy định pháp luật công khai, mimh bạch; tham vấn cộng đồng hoặc không đảm bảo được công bằng quyền lợi và sự đồng thuận của người dân thì quá trình chuyển dịch sẽ găp nhiều khó khăn, trở ngại.
Nguồn nhân lực kỹ thuật cho NLTT, hiện đang còn khoảng trống rất lớn. Bởi các trường trong nước chưa đủ khả năng đào tạo chuyên sâu về kiến thức và khả năng vận hành, bảo dưỡng và sửa chữa thiết bị chuyên dụng. Hầu hết lao động được đào tạo thông qua quá trình chuyển giao công nghệ tại các công ty; ngành giáo dục và lao động chưa có định hướng rõ ràng về đào tạo nguồn nhân lực hoặc lao động địa phương để tham gia vào chuỗi sản xuất này.
Thay cho lời kết
Hệ thống năng lượng giữ vai trò cốt lõi đối với phát triển kinh tế. Là nguồn sản xuất mới, NLTT giúp giải quyết vững chăc vấn đề ô nhiễm và BĐKH, góp phần thiết thực vào xây dựng điện năng công bằng và bình đẳng. Trướcnhững khó khăn thách thức cần phải vượt qua, các nhà phân tích cho rằng, trong xây dựng chính sách chuyển dịch năng lượng công bằng, các cơ quan quản lý cần xem xét đến lợi ích đa chiều cả về kinh tế, xã hội và môi trường nhằm tích hộp vào chính sách ngành hướng tới đảm bảo tính đồng bộ và nhất quán trong thực hiện chủ trương phát triển. Chuyển dịch năng lượng liên quan mật thiết đến chuyển dịch kinh tế và lao động, đòi hỏi phải có sự phối hợp liên ngành và đồng bộ để xây dựng thành lộ trình và tổ thực hiện hiệu quả kế hoạch chuyển đổi công bằng. Theo đó, chính phủ cần đẩy mạnh xây dựng, thực thi đồng bộ và nhất quán chính sách ưu tiên sử dụng năng lượng gắn với phát triển ngành NLTT, hạn chế đầu tư thêm các nhà máy nhiệt điện than. Để tránh xung đột và những rủi ro, đảm bảo sinh kế của người dân và các nhóm cộng đồng bị ảnh hưởng trong chuyển dịch năng lượng, cần quan tâm phát triển NLTT cả ở quy mô tập trung, phân tán và tích hợp bằng nhiều giải pháp thực hiện khác nhau...
Tài liệu tham khảo
Miranda A. Schreurs et al (2017) Thúc đẩy chuyển dịchnăng lượng đảm bảo công bằng xã hội và kinh tế tại châu Á, Viện Friedrich Ebert Việt Nam Bba Đình Hà Nội
Ngụy thị Khanh et al (2019) Chuyển dịch Năng lượng công bằng Cơ hội và thách thức cho Việt Nam GreenID&FES, Hà Nội tháng 6/2019
Koos Neefjes et al (2017). Hướng tới chuyển dịch cơ cấu năng lượng đảm bảo công bằng xã hội tại Việt Nam, FES, Hà Nội 2017
File Chuyển dịch NLCB (Green ID) 7/19